Tài chính & Đầu tư

Vàng: Thăng trầm lịch sử – Phần 1: Lịch sử của vàng.

Vàng là một kim loại quý đồng thời cũng là một chế độ tiền tệ của thế giới. Vàng đã đồng hành cùng loài người trong những quá trình lịch sử dài để có vai trò quan trọng như ngày nay trong đời sống chính trị – kinh tế – xã hội của mỗi gia đình, mỗi quốc gia, khu vực và toàn cầu.

NGÀY XỬA NGÀY XƯA

Nói đến lịch sử của vàng, có lẽ người ta phải bắt đầu bằng cụm từ thường gặp trong các câu chuyện cổ tích “Ngày xửa, ngày xưa…”. Quả thực, từ các nhà nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu khoa học đến các chuyên gia tài chính, tiền tệ… có lẽ chẳng ai biết bắt đầu từ đâu, từ mốc thời gian nào để nói về lịch sử của thứ kim loại màu vàng quý hiếm này. Cũng không có một bằng chứng khảo cổ học xác đáng nào để xác định chính xác thời gian cũng như nơi đầu tiên con người may mắn bắt gặp vàng.

Những bằng chứng ít ỏi mà chúng ta có được cũng chỉ có thể nói lên rằng, con người đã biết đến vàng từ rất lâu:

  • Các chuyên gia nghiên cứu các vật thể hóa thạch đã phát hiện một chút Vàng tự nhiên trong các hang động ở Tây Ban Nha trong thời kỳ đồ đá cổ đại khoảng 40 ngàn năm trước Công Nguyên (TCN).
  • Các Pharaon và đền thờ của các thầy tu đã sử dụng các di vật kim loại trang trí trong thời kỳ cổ đại Ai cập 3000 năm trước Công Nguyên.
  • Vàng là đồng tiền quốc tế cổ nhất và đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống tiền tệ của hầu hết các quốc gia trong vòng hơn 2000 năm qua.
  • Đồng tiền đầu tiên có chứa vàng có lẽ được đúc ở thế kỷ thứ 8 TCN, và đồng tiền vàng nguyên chất đầu tiên được đúc theo lệnh của vua Croesus ở Lydia (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) khoảng 550 TCN.
  • Sở hữu những đặc tính “quý hiếm” như tính không bị ôxy hoá, không bị xỉn, dễ dát mỏng, dễ đúc và nhiều đặc tính khác khiến vàng trở nên phù hợp với chức năng của tiền tệ. Tiền vàng sau đó được phát triển dần ở các nền văn minh Địa Trung Hải và được lưu hành tại nhiều quốc gia khác.

HỆ THỐNG VÀNG QUA CÁC THỜI KỲ

Trải qua nhiều thế kỷ, đồng tiền kim loại – được làm từ các kim loại và giá trị của đồng tiền được xác định dựa trên giá trị của bản thân kim loại làm ra nó – đã dần dần được thay thế bởi tiền được đảm bảo bằng kim loại quý (bắt đầu với hối phiếu do các ngân hàng phát hành ở thời Trung Cổ và chuyển sang tiền tượng trưng do Nhà nước phát hành hoặc tiền giấy trong thế kỷ thứ 17 và 18).

Những đồng tiền tượng trưng này có thể được trao đổi để lấy vàng hoặc bạc khi cần. Vàng, bạc hoặc cả hai thứ kim loại này vẫn là cơ sở của hệ thống tiền tệ. Nhìn chung bạc được sử dụng cho những giao dịch trong nước còn vàng được được sử dụng trong các giao dịch quốc tế. Nước Anh chuyển sang chế độ bản vị vàng phổ biến vào năm 1717 – khi đó tiền được ấn định với vàng ở một tỷ lệ nhất định và chính thức chuyển sang chế độ vàng vào năm 1816 nhưng hầu hết các quốc gia đều sử dụng hệ thống bạc hoặc lưỡng kim cho tới khoảng năm 1879 khi nền kinh tế mới nổi Đức mới nổi Đức chuyển sang hệ thống vàng.

Hệ thống bản vị vàng quốc tế chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian tương đối ngắn – từ những năm 1870 đến khi Thế chiến I nổ ra năm 1914. Rất nhiều giấy mực đã dành để viết về thời kỳ này. Những quan điểm về thành công của thời kỳ bản vị vàng rất khác nhau nhưng ở một số khía cạnh các nghiên cứu có sự thống nhất. Nó tạo ra cơ sở để hình thành nên thời kỳ kinh tế tăng trưởng tương đối ổn định và thịnh vượng, trong đó lạm phát nhìn chung là thấp và tương đối ổn định. Hệ thống này đã vượt qua khỏi những cú sốc khá tốt (cho đến khi gặp phải cú sốc Thế chiến I). Một ưu điểm nổi bật của chế độ bản vị vàng đó là bằng cách bảo đảm gần như chắc chắn đối với nhà đầu tư nước ngoài rằng giá trị khoản đầu tư của họ hiếm khi bị ảnh hưởng bởi sự mất giá của đồng tiền của nước nhận đầu tư so với đồng tiền của nước đầu tư, nó tạo điều kiện thuận lợi cho các dòng chảy vốn đầu tư trực tiếp quốc tế.

Tuy nhiên, chế độ ấy không hoàn hảo; luôn có những độ trễ không thể tránh khỏi trong phản ứng của sản lượng khai thác mỏ đối với các tác nhân kích thích về giá. Những cú sốc đối với nguồn cung vàng thế giới và nỗi lo sợ rằng trữ lượng vàng cạn kiệt cuối cùng sẽ gây ra giảm phát. Nhưng nó đã có tác dụng giúp cân bằng tự nhiên và điều chỉnh sự bất thăng bằng giữa các quốc gia và giữ mức giá dài hạn nhìn chung ổn định.

Những nỗ lực nhằm quay trở lại với thời bản vị vàng sau Thế chiến I đã không được quản lý đúng cách với việc tái áp dụng tỷ lệ trao đổi như thời trước chiến tranh ở một số nước mặc cho có sự xuất hiện của lạm phát, tỷ lệ trao đổi thấp hơn ở những nước khác và sự kìm hãm những cơ chế điều chỉnh cần thiết. Đồng đôla ấn định theo vàng được đổi ở mức 20,67$ lấy 1 troy ounce, tỷ lệ này vẫn được giữ trong những năm chiến tranh và sau chiến tranh, nhưng vào năm 1934, đồng đôla được định giá lại ở mức 35$ đổi 1 troy ounce.

Sau Chiến tranh thế giới II, cái cốt lõi của hệ thống tiền tệ Bretton Woods được hình thành, đó là đồng đôla nên được gắn cố định với vàng ở mức 35$ đổi lấy 1 troy ounce còn các đồng tiền khác được xác định giá trị theo đồng đôla với tỷ giá cố định và có thể điều chỉnh. Hệ thống Bretton Woods có lẽ đã giúp hình thành nên (ít nhất là đối với các nước Phương Tây) thời kỳ huy hoàng nhất của lịch sử kinh tế. Tăng trưởng cao, và lạm phát mặc dù cao hơn ở thời kỳ bản vị vàng cổ xưa nhưng vẫn tương đối thấp và ổn định. Rất nhiều các nước đang phát triển đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong kỷ nguyên đó.

Tuy nhiên, mức giá cố định 35$/troy ounce trở thành phi thực tế qua thời gian, một phần do lạm phátvà cơn sốt vàng do hậu quả của cuộc chiến tranh với Việt Nam. Mức cố định 35$/troy ounce đã được thay thế vào năm 1968 bởi một hệ thống hai tầng với thị trường tự do (chợ đen) và thị trường chính thức , nhưng vàng trao đổi trên thị trường tự do vẫn phải theo mức ấn định (mặc dù thực tế không diễn ra như vậy). Khi Mỹ từ bỏ hệ thống vào năm 1971, giá ấn định cuối cùng là 42,22$/troy ounce và ngày nay Mỹ chính thức định giá mức dự trữ vàng của nước mình ở mức giá đó.

Khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ vào đầu những năm 1970, vàng không còn là xương sống chính thức của hệ thống tiền tệ quốc tế và dưới những quy tắc của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, các quốc gia không thể đảm bảo đồng tiền của mình bằng vàng. Mặc dù vậy vàng vẫn còn những chức năng tiền tệ nhất định và được chính thức sử dụng làm tài sản dự trữ của các ngân hàng Trung ương.

 

NGUỒN: SAGA.VN

Facebook Comments

Có thể bạn cũng quan tâm