Bài viết được chia sẻ từ hai tác giả Josh Baron và Rob Lachenauer. Josh Baron là người đồng sáng lập của BanyanGlobal – một công ty tư vấn các doanh nghiệp gia đình có trụ sở tại Mỹ, và là giáo sư thỉnh giảng tại Trường Kinh doanh Columbia. Trong khi Rob Lachenauer cũng là một trong những người sáng lập và CEO của BanyanGlobal, ông đã từng là Phó Chủ tịch và Giám đốc của Boston Consulting Group từ 1995 đến 2004.
Một trong những câu hỏi đầu tiên mà chúng tôi hỏi khách hàng là, “Bạn sở hữu doanh nghiệp gia đình của bạn như thế nào?”. Câu trả lời của mọi người thường chú ý tới tính pháp lý: “Chúng tôi là công ty trách nhiệm hữu hạn” hoặc “Cổ phiếu của chúng tôi được nắm giữ theo sự ủy thác”. Tất nhiên, những thông tin này rất quan trọng, nhưng nó không trả lời những câu hỏi cơ bản hơn: “Trong hệ thống doanh nghiệp gia đình của bạn, ai sẽ trở thành chủ sở hữu? Và chính xác, quyền sở hữu có ý nghĩa gì đối với bạn? ”
Quyền sở hữu doanh nghiệp gia đình đòi hỏi một tập hợp các lựa chọn – việc thiếu nhận thức điều này có lẽ là quan niệm sai lầm lớn nhất và tai hại nhất trong lĩnh vực kinh doanh gia đình. Việc bạn không hiểu các lựa chọn về quyền sở hữu của bạn cuối cùng có thể làm tê liệt doanh nghiệp, khiến cho doanh nghiệp mất lợi thế cạnh tranh, thậm chí dẫn đến bị mua lại hoặc phải bán đi mà trái với mong muốn của chủ sở hữu.
Cách tốt nhất để thoát khỏi những cuộc khủng hoảng này là hiểu rằng có nhiều cách khác nhau để sở hữu các doanh nghiệp gia đình. Mặc dù có những mô hình lai, nhưng hầu hết các doanh nghiệp gia đình áp dụng một trong năm mô hình sở hữu dưới đây. Một trong những quyết định quan trọng nhất mà bạn sẽ phải đưa ra là chọn mô hình nào để áp dụng.
Để lấy ví dụ, chúng tôi đã làm việc với thế hệ thứ tư của một người khổng lồ trong ngành xây dựng. Đây là thế hệ mà gia đình bị chia rẽ sâu sắc bởi vì các chủ sở hữu nắm giữ các giả định cá nhân về quyền sở hữu khác nhau. Những người tích cực tham gia vào việc kinh doanh thì phẫn nộ với những gì họ gọi là “người ăn bám” – những thành viên cũng có quyền được chia lợi nhuận như họ, mặc dù những thành viên đó không hề quan tâm hoặc không đủ điều kiện năng lực để làm việc trong doanh nghiệp. Những người ăn không này lại cũng có những sự lo lắng, căng thẳng nhất định. Họ thấy các chủ sở hữu làm việc trong công việc kinh doanh như những tên cướp dưới lốt quý tộc – người đã lừa lọc và dụ dỗ để có mức tiền lương và lợi ích như mong muốn.
Trên bề mặt, các thành viên trong gia đình luôn tranh cãi về lương bổng và cổ tức. Trong thực tế, sự bất đồng đó có nguyên do sâu xa hơn – từ việc định nghĩa thế nào là chủ sở hữu, ý nghĩa của quyền sở hữu trong một hệ thống doanh nghiệp gia đình. Một số thành viên gia đình kiên quyết rằng chủ sở hữu nên làm việc trong công ty, trong khi những người khác tỏ ra không đồng ý một cách quả quyết: “Đây là sự thừa kế tài sản của chúng ta! Ông cố của chúng ta muốn chúng ta là những chủ sở hữu bình đẳng. ”
Bước đột phá chỉ đến sau khi sự xung đột nội bộ đã chuyển thành nhận thức về năm mô hình sở hữu cơ bản:
- Mô hình chủ sở hữu/nhà điều hành (Owner/Operator model)
- Mô hình cộng sự (Partnership Model)
- Mô hình bị phân mảnh (Distributed Model)
- Mô hình tập trung (Nested Model)
- Mô hình đại chúng (Public Model)
Hiểu được ý nghĩa của từng mô hình và sự đánh đổi của nó cuối cùng sẽ cho phép các chủ sở hữu bắt đầu có những cuộc thảo luận bình tĩnh về câu hỏi quyền sở hữu với họ nghĩa là gì, từ đó mới có thể đi đến thoả hiệp.
Điều quan trọng là phải định kỳ xem xét lại cách bạn sở hữu doanh nghiệp gia đình của mình – đặc biệt trong thời gian chuyển đổi. Cố bám lấy những mô hình đã hoạt động tốt trong thế hệ trước có thể đe dọa, hoặc thậm chí giết chết doanh nghiệp trong thế hệ tiếp theo. Hành động này cũng có thể đặt một sự căng thẳng lên các mối quan hệ gia đình.
1. MÔ HÌNH CHỦ SỞ HỮU/NHÀ ĐIỀU HÀNH (OWNER/OPERATOR MODEL)
Có lẽ mô hình đơn giản nhất là sao chép vai trò của người sáng lập – nó giữ quyền kiểm soát quyền sở hữu ở một người (hoặc vài người). Mô hình này, mà chúng tôi gọi là chủ sở hữu – người điều hành (owner/operator), có thể thành công trong nhiều thế hệ. Hãy nghĩ về chế độ quân chủ Anh. Hoặc công ty Caterpillar, công ty có triết lý doanh nghiệp khuyến khích các nhà phân phối trên toàn thế giới có một người làm việc trong doanh nghiệp với quyền kiểm soát quyền sở hữu. Để mô hình chủ sở hữu/nhà điều hành (owner/operator model) hoạt động, các gia đình cần phải tìm ra cách để quyết định công bằng ai sẽ là người kế thừa quyền chủ sở hữu.
2. MÔ HÌNH CỘNG SỰ (PARTNERSHIP MODEL)
Mô hình cộng sự (partnership model) lại hoạt động tốt đối với một số chủ sở hữu. Quan hệ cộng sự độc đáo ở chỗ: trong mô hình, chỉ có các nhà lãnh đạo trong doanh nghiệp mới có thể là chủ sở hữu và được hưởng lợi về mặt tài chính từ đó. Chúng tôi đã làm việc với một công ty vận tải biển lớn do năm anh em làm cộng sự. Những người con trai mở rộng công việc kinh doanh mà họ thừa kế từ cha mình thành một công ty tỷ đô la. Quan hệ cộng sự của họ hoạt động được vì các anh em đóng góp gần như bằng nhau cho sự thành công của doanh nghiệp. Họ đã có cùng một mức lương và mức phân phối lợi nhuận.
Rắc rối không xảy ra cho đến thế hệ thứ ba. Bốn trong số các anh em mời các con trai của họ tham gia kinh doanh, tạo ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan cho anh trai chỉ có một cô con gái. Cô ấy thậm chí không được coi là một đối tác kinh doanh tiềm năng, một sự bị loại trừ làm cô ấy thiệt hại hàng triệu đô la. Cha cô đã gửi cho anh em của ông ấy một tối hậu thư: hoặc là họ thừa nhận con gái của ông, hoặc ông ta cũng sẽ không chấp nhận cho những đứa con trai khác của họ vào việc hợp tác.
Các câu hỏi về sự tham gia vào việc cộng tác trở thành tối quan trọng. Công ty tiếp tục hoạt động hàng ngày, nhưng kể từ khi sự hợp tác yêu cầu sự đồng thuận, tất cả các quyết định chính đã bị trì hoãn. Bi kịch xảy ra khi các anh em không thể đạt được sự nhất trí, họ đã bán công ty – nơi đã cho họ và các thành viên khác trong gia đình một ý thức sâu sắc về cá nhân họ và mục đích trong cuộc sống.
3. MÔ HÌNH BỊ PHÂN MẢNH (DISTRIBUTED MODEL)
Kết quả trên có phải là tất yếu không? Hoàn toàn không. Ngay cả trong các tình huống xung đột to lớn, bạn có thể cứu doanh nghiệp gia đình của mình nếu bạn cân nhắc các mô hình sở hữu khác nhau. Ví dụ, chủ sở hữu ở đây có thể đã chuyển sang mô hình bị phân mảnh (distributed model), nơi quyền sở hữu được chuyển xuống cho hầu hết hoặc tất cả con cháu, dù họ có hoạt động trong công ty hay không. Việc chuyển sang mô hình này có thể đã giúp các anh em hòa giải sự khác biệt của họ. Tất cả các thành viên của thế hệ thứ ba có thể đã trở thành chủ sở hữu, trong khi những thay đổi trong chính sách lương bổng sẽ có thưởng cho những người đóng góp cho sự thành công của doanh nghiệp.
Mô hình bị phân mảnh (distributed model) là mô hình mặc định trong hầu hết các doanh nghiệp gia đình. Cha mẹ thường muốn tất cả con cái của họ được thừa hưởng như nhau và, bên cạnh đó, hầu hết các tài sản đều nằm trong công ty. Nhưng cũng có những thách thức đối với mô hình này. Các thành viên gia đình làm việc trong doanh nghiệp thường không đồng ý với những người bên ngoài doanh nghiệp vì những người này sẽ khác biệt. Ví dụ, họ có thể khác biệt về chính sách lương bổng và phân chia lợi nhuận.
4. MÔ HÌNH TẬP TRUNG (NESTED MODEL)
Vẫn còn một lựa chọn khác cho các chủ doanh nghiệp gia đình là mô hình tập trung (nested model). Nhiều chi nhánh gia đình đồng ý sở hữu một số tài sản cùng nhau và một số thì riêng biệt. Mô hình này – tập trung có nghĩa là các nhóm kinh doanh gia đình nhỏ hơn nằm bên trong các nhóm lớn hơn – đặc biệt hấp dẫn khi xung đột hoặc sự khác biệt về sở thích ảnh hưởng đến việc ra quyết định đối với tài sản cùng sở hữu. Để mô hình tập trung (nested model) có thể thành công, gia đình điều hành hoạt động kinh doanh cốt lõi như là hoạt động tạo lợi nhuận và phân chia cổ tức tương đối lớn cho các chi nhánh, những nơi mà sau đó sử dụng tiền để tạo danh mục đầu tư của riêng mình. Mô hình tập trung (nested model) có thể làm giảm thiểu một cách hiệu quả căng thẳng giữa các chi nhánh trong khi vẫn giữ cho gia đình hoạt động thống nhất một khối. Tuy nhiên, có một rủi ro đó là việc hoạt động kinh doanh cốt lõi thiếu vốn để tài trợ cho các khoản đầu tư bên ngoài.
5. MÔ HÌNH ĐẠI CHÚNG (PUBLIC MODEL)
Lựa chọn cuối cùng là mô hình công ty đại chúng (public model), trong đó ít nhất một phần cổ phần được giao dịch công khai, hoặc doanh nghiệp gia đình hành xử như một công ty đại chúng mặc dù nó vẫn là công ty tư nhân. Cho dù cổ phiếu được giao dịch công khai hay không, doanh nghiệp được điều hành bởi các nhà quản lý chuyên nghiệp và chủ sở hữu chỉ đóng vai trò tối thiểu, thường bị giới hạn trong việc bầu các thành viên hội đồng quản trị mà thôi. Mặt khác, họ hỗ trợ chỉ đạo quản lý hoặc bán cổ phần của họ. Mô hình này hoạt động tốt khi doanh nghiệp yêu cầu phải có một lượng đáng kể vốn bên ngoài, hoặc khi có quá nhiều chủ sở hữu, phân tán hoặc không quá quan tâm để tham gia tích cực vào việc ra quyết định. Câu hỏi then chốt sau đó trở thành: làm thế nào các chủ sở hữu gia đình có thể duy trì quyền kiểm soát khi họ đóng một vai trò hạn chế trong việc ra quyết định về doanh nghiệp?
Không có sự tiến triển tự nhiên từ mô hình điều hành-chủ sở hữu đến mô hình đại chúng. Chủ sở hữu có thể, và việc họ phải làm, là linh động giữa các mô hình. Chúng tôi đã thấy các nhóm sở hữu chuyển đổi mô hình từ mô hình đại chúng sang mô hình phân tán, ngay cả các công ty rất lớn. Tất nhiên, việc chuyển sang mô hình quyền sở hữu khác bao gồm những thay đổi lớn về quản trị, cấu trúc pháp lý và mối quan hệ gia đình. Điều đó không dễ dàng. Nhưng việc áp dụng mô hình quyền sở hữu mới có thể giúp chủ sở hữu tìm ra phương hướng cho doanh nghiệp gia đình của mình – thứ đang trở lên rất bế tắc. Nó cũng có thể là một thứ giữ cho gia đình bạn luôn sát cánh cùng nhau.